TÌM HIỂU VỀ UNG THƯ VÚ BỘ BA ÂM TÍNH
Bài đăng Tạp chí Người Cao tuổi số 64 (3677) thứ 6 ngày 29/03/2024
Ung thư vú bộ ba âm tính (TNBC) chiếm khoảng 10-15% của tất cả các bệnh ung thư vú. Thuật ngữ ung thư vú bộ ba âm tính đề cập đến thực tế là các tế bào ung thư không có thụ thể estrogen hoặc progesterone (ER hoặc PR) và cũng không tạo ra bất kỳ hoặc quá nhiều protein gọi là HER2. Các tế bào cho kết quả “âm tính” trong cả 3 lần xét nghiệm. Những bệnh ung thư này có xu hướng phổ biến hơn ở phụ nữ dưới 40 tuổi, người da đen hoặc người có đột biến BRCA.
Ung thư vú bộ ba âm tính (Triple-negative breast cancer – TNBC) khác với các loại ung thư vú xâm lấn khác ở chỗ nó có xu hướng phát triển và lây lan nhanh hơn, có ít lựa chọn điều trị hơn và có xu hướng tiên lượng xấu hơn (triển vọng).
Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư vú bộ ba âm tính
Ung thư vú bộ ba âm tính có thể có các dấu hiệu và triệu chứng giống như các loại ung thư vú thông thường khác.
Mặc dù việc kiểm tra sàng lọc ung thư vú thường xuyên là rất quan trọng, nhưng chụp quang tuyến vú không phát hiện ra mọi bệnh ung thư vú. Điều này có nghĩa là người bệnh cũng cần biết bình thường ngực của mình trông như thế nào và cảm thấy như thế nào, để có thể nhận biết bất kỳ thay đổi nào ở ngực.
Triệu chứng phổ biến nhất của ung thư vú là một cục hoặc khối mới (mặc dù hầu hết các cục ở vú không phải là ung thư). Một khối cứng, không đau có các cạnh không đều có nhiều khả năng là ung thư, nhưng ung thư vú cũng có thể mềm, tròn, mềm hoặc thậm chí đau.
Các triệu chứng khác có thể có của ung thư vú bao gồm:
– Sưng toàn bộ hoặc một phần vú (ngay cả khi không sờ thấy khối u nào).
– Lúm da (đôi khi trông giống như vỏ cam).
– Đau vú hoặc núm vú.
– Núm vú tụt (xoay vào trong).
– Núm vú hoặc da vú đỏ, khô, bong tróc hoặc dày lên.
– Tiết dịch núm vú (không phải sữa mẹ).
– Sưng hạch bạch huyết dưới cánh tay hoặc gần xương quai xanh. Đôi khi đây có thể là dấu hiệu của ung thư vú lan rộng ngay cả trước khi khối u ban đầu ở vú đủ lớn để có thể sờ thấy.
Nhiều triệu chứng trong số này cũng có thể do tình trạng vú lành tính (không phải ung thư) gây ra.
Hãy nhớ rằng biết những gì cần tìm không thay thế cho việc kiểm tra ung thư vú thường xuyên. Chụp nhũ ảnh sàng lọc thường có thể giúp phát hiện ung thư vú sớm, trước khi bất kỳ triệu chứng nào xuất hiện. Phát hiện ung thư vú sớm giúp người bệnh có cơ hội điều trị thành công cao hơn.
Ung thư vú bộ ba âm tính được chẩn đoán như thế nào?
Sau khi chẩn đoán ung thư vú đã được thực hiện bằng các xét nghiệm hình ảnh và sinh thiết, các tế bào ung thư sẽ được kiểm tra một số protein nhất định. Nếu các tế bào không có thụ thể estrogen hoặc progesterone (ER hoặc PR), và cũng không tạo ra bất kỳ hoặc quá nhiều protein HER2, ung thư được coi là ung thư vú bộ ba âm tính.
Tỷ lệ sống sót đối với ung thư vú bộ ba âm tính
Ung thư vú bộ ba âm tính (TNBC) có xu hướng phát triển nhanh chóng, có nhiều khả năng lây lan vào thời điểm nó được phát hiện và có nhiều khả năng quay trở lại sau khi điều trị hơn các loại ung thư vú khác. Do đó, tỷ lệ sống sót của TNBC thường không cao bằng các loại ung thư vú khác.
Tỷ lệ sống sót có thể cho chúng ta biết tỷ lệ phần trăm những người mắc cùng loại và giai đoạn ung thư vẫn còn sống trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 5 năm) sau khi họ được chẩn đoán. Bác sĩ không thể cho người bệnh biết họ sẽ sống được bao lâu, nhưng họ có thể giúp họ hiểu rõ hơn về khả năng điều trị thế nào.
Hãy nhớ rằng tỷ lệ sống sót là ước tính và thường dựa trên kết quả trước đó của một số lượng lớn người mắc bệnh ung thư, nhưng họ không thể dự đoán điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp của bất kỳ người cụ thể nào.
Tỷ lệ sống tương đối 5 năm là gì?
Tỷ lệ sống sót tương đối so sánh phụ nữ mắc cùng loại và giai đoạn ung thư vú với phụ nữ trong toàn bộ dân số. Ví dụ: Nếu tỷ lệ sống sót tương đối trong 5 năm đối với một giai đoạn cụ thể của bệnh ung thư vú là 90%, điều đó có nghĩa là những phụ nữ mắc bệnh ung thư đó trung bình có khả năng mắc bệnh cao hơn khoảng 90% so với những phụ nữ không mắc bệnh ung thư đó sống ít nhất 5 năm sau khi được chẩn đoán.
Tỷ lệ sống sót được nhóm lại dựa trên mức độ lan rộng của ung thư, nhưng tuổi tác và sức khỏe tổng thể của người bệnh, mức độ đáp ứng của ung thư với điều trị, cấp độ khối u và các yếu tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến triển vọng của người bệnh.
Điều trị ung thư vú bộ ba âm tính
Ung thư vú bộ ba âm tính có ít lựa chọn điều trị hơn các loại ung thư vú xâm lấn khác. Điều này là do các tế bào ung thư không có thụ thể estrogen hoặc progesterone hoặc không đủ protein HER2 để thực hiện liệu pháp hormone hoặc thuốc nhắm mục tiêu HER2. Bởi vì liệu pháp hormone và thuốc chống HER2 không phải là lựa chọn cho phụ nữ bị ung thư vú bộ ba âm tính, nên hóa trị thường được sử dụng.
Nếu ung thư chưa di căn đến các vị trí xa, phẫu thuật là một lựa chọn. Hóa trị có thể được dùng trước để thu nhỏ khối u lớn, sau đó là phẫu thuật. Hóa trị thường được khuyến nghị sau phẫu thuật để giảm khả năng ung thư quay trở lại. Bức xạ cũng có thể là một lựa chọn tùy thuộc vào các đặc điểm nhất định của khối u và loại phẫu thuật người bệnh đã thực hiện.
Trong trường hợp ung thư đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể (giai đoạn IV), hóa trị liệu, các loại thuốc nhắm mục tiêu như chất ức chế PARP hoặc thuốc kết hợp kháng thể hoặc liệu pháp miễn dịch với hóa trị liệu có thể được xem xét.
Link báo chí:
https://ngaymoionline.com.vn/tim-hieu-ve-ung-thu-vu-bo-ba-am-tinh-51248.html
BS. Nguyễn Thùy Ngân (Thọ Xuân Đường)