KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT KINH LẠC
Kinh lạc là tên gọi chung của kinh mạch và lạc mạch trong cơ thể. Kinh là đường thẳng, là cái khung của hệ kinh lạc và đi ở sâu. Lạc là đường ngang, là cái lưới, từ kinh mạch chia ra như mạng lưới đến khắp mọi nơi và đi ở nông. Kinh lạc phân bố ra toàn thân, là con đường vận hành của âm dương, khí huyết, tân dịch, khiến cho con người từ ngũ tạng, lục phủ, cân, mạch, cơ nhục, xương cốt…kết thành một chỉnh thể thống nhất.
1. Cấu tạo của hệ kinh lạc
Hệ kinh lạc được cấu tạo bởi các kinh mạch chính, kinh mạch phụ, các kinh cân, kinh biệt, tôn lạc, phủ lạc và các huyệt. Gồm như sau:
• 12 kinh mạch chính
• 8 kinh mạch phụ
- Nhâm mạch
- Đốc mạch
- Xung mạch
- Đới mạch
- Âm duy mạch
- Dương duy mạch
- Âm kiểu mạch
- Dương kiểu mạch
• Kinh biệt, kinh cân, biệt lạc, tôn lạc, phủ lạc
- 12 kinh biệt đi ra từ 12 kinh chính
- 12 kinh cân nối liền các đầu xương ở tứ chi không vào phủ phủ tạng.
- 15 biệt lạc đi từ 14 đường kinh mạch biểu lý với nhau và một tổng lạc.
- Tôn lạc: từ biệt lạc phân nhánh nhỏ.
- Phù lạc: từ tôn lạc nổi ở ngoài da.
• Huyệt
Gồm 319 huyệt ở các đường kinh chính, 52 huyệt ở 2 đường kinh phụ cộng là 371 huyệt nằm trên 14 đường kinh (nếu kể cả 2 bên là 319 x 2 + 52 = 690 huyệt) và khoảng 200 huyệt ngoài đường kinh (hiện nay bên Trung Quốc đã tìm và đặt tên thêm nhiều huyệt nữa).
Kinh khí và kinh huyết vận hành trong kinh lạc. Ngoài tác dụng chung còn mang tính chất của đường kinh mà nó cư trú.
2. Tác dụng của hệ thống kinh lạc
• Về phương diện sinh lý
Hệ thống kinh lạc thông hành khí huyết trong các tổ chức của cơ thể chống ngoại tà bảo vệ cơ thể.
Hệ thống kinh lạc liên kết các tổ chức cơ thể (tạng, phủ, tứ chi, cửu khiếu, cân mạch, xương, da…) có chức năng khác nhau thành một khối thống nhất.
• Về phương diện bệnh lý
Khi công năng hoạt động của hệ kinh lạc bị trở trệ, gây kinh khí không thông lợi thì dễ bị ngoại tà xâm nhập và gây bệnh.
Bệnh thường truyền từ ngoài vào trong, từ ngoài da cơ nhục vào đên tận tạng, tức là từ kinh mạch vào phủ tạng.
Bệnh ở phủ tạng thường có những biểu hiện bệnh lý ở đường kinh mạch đi qua: ví dụ vị nhiệt thì loét miệng, cơn đau ngực do co thắt động mạch vành thì đau ở kinh tâm…
• Về phương diện chẩn đoán
Kinh mạch nối liền với tạng phủ và có đường đi ở những vị trí nhất định của cơ thể. Căn cứ vào những thay đổi cảm giác như đau, tức, trướng, điện sinh vật trên đường đi của kinh mạch người ta chẩn đoán bệnh thuộc tạng phủ nào đó gọi là kinh lạc chẩn. Ví dụ: Nhức đầu vùng đỉnh do can, đau nửa bên đầu do đởm, đau sau gáy thuộc bàng quang…
Ngoài ta người ta còn đo thông số về điện sinh vật của các tỉnh huyệt (huyệt tận cùng đầu chi của các kinh) hay nguyên huyệt (huyệt chính của một đường kinh) bằng máy đo kinh lạc để đánh giá được tình trạng hư thực của khí huyết (huyết tay trái, khí tay phải) hoặc tình trạng hư thực của phủ so với trung bình hoặc so hai bên cơ thể với nhau…
• Về phương diện điều trị
Học thuyết kinh lạc được ứng dụng nhiều nhất vào phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu, xoa bóp bấm huyệt và dùng thuốc.
Châm cứu và xoa bóp đã thành một phương pháp chữa bệnh đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Học thuyết kinh lạc chỉ đạo việc quy tác dụng của thuốc tương ứng với tạng, phủ hay đường kinh nào đó gọi là sự quy kinh của thuốc.
Ví dụ:
- Đỗ trọng quy kinh thận nên có tác dụng bổ xương cốt.
- Hoàng bá quy kinh bàng quang nên có tác dụng thanh nhiệt vùng bàng quang.
Bác sĩ: Minh Nguyễn (Thọ Xuân Đường)