Trong y dược học cổ truyền, khi sử dụng thuốc chữa xoang không thể không nhắc đến vị thuốc Tân Di (Flos magnolia). Tân di còn có tên là Mộc bút hoa, Bạch mộc liên, Ứng xuân hoa, Ngọc lan hoa, Vọng xuân hoa, Khương phác hoa... Thực chất nó là búp hoa của cây Tân Di, tên khoa học là Magnolialiliflora Desr.
Tân di có vị cay (tân) tính ấm (ôn), khinh phù. Nhập phế, vị khí phận. Có công năng trợ vị, làm khí thanh dương đi lên, ôn trung giải cơ, thông cửu khiếu, lợi quan tiết (khớp xương) vì vậy có tác dụng tuyên tán phong nhiệt ở thượng tiêu.
Chủ trị chứng chảy nước mũi đặc, ngạt mũi (tị uyên, tị tắc). Phế chủ mũi, Đởm di nhiệt lên não, mũi có nhiều dịch đục (trọc) gọi là tị uyên, phong hàn tà khách ở não gây ngạt mũi gọi là tị tắc. Theo Vương Băng: Dịch đởm không trong, thì sinh ra nước mũi đục (trọc thế), như nước suối bất lưu lợi vậy. Tân di trị đau đầu vùng mặt, mắt hoa, răng đau, bệnh phong nhiệt phạm cửu khiếu.
Theo y văn cổ: Phế khai khiếu ở mũi, Dương minh vị mạch có đường đi qua mũi. Não là nơi trú ngụ của nguyên thần, mũi là khiếu của mệnh môn. Khi trung khí không đầy đủ (bất túc), thanh dương không thăng lên được lên đầu, cửu khiếu không được thông lợi.
Theo nghiên cứu của y học hiện đại, Tân di có chứa 0,5% - 2,86% tinh dầu chủ yếu là Eugenol, Magnoflorine và Foeniculin … Flavonoid, Anthocyanin, Alkaloid, Oleic acid, Vitamin A…là những hoạt chất này có tác dụng trong điều trị bệnh viêm xoang mãn tính hữu hiệu.
Tác dụng dược lý của Tân di đó là: Tăng lưu lượng máu vi tuần hoàn, giảm đau và chống viêm, ức chế virus cúm và một số vi khuẩn (tụ cầu vàng, trực khuẩn bạch hầu, liên cầu khuẩn β tan huyết nhóm A, trực khuẩn lỵ…), kháng nấm, chống dị ứng, hạ huyết áp, kích thích cơ trơn tử cung, cơ trơn thành ruột…
Bằng lý luận và kinh nghiệm chữa bệnh của y học cổ truyền, từ xa xưa đã có những bài thuốc chữa xoang hay từ Tân di để điều trị bệnh hiệu quả:
- Chữa ngạt mũi, giảm hoặc mất khả năng ngửi của mũi (theo “ Mai thị nghiệm phương tân biên”): Dùng Tạo giác (Bồ kết), Tân di, Thạch xương bồ lượng bằng nhau tất cả tán thành bột mịn, thổi nhẹ hoặc rắc vào trong mũi.
- Khung cùng tán: Chữa mũi tắc do thấp trọc (Theo “Chứng trị chuẩn thằng”): Gồm các vị Xuyên khung, Tân di mỗi thứ 50g, Tế tân 30g , Mộc thông 15g tán nhỏ thổi nhẹ hoặc rắc vào trong mũi.
- Chữa mũi sưng, mọc mụn ngứa bên trong (theo “Mậu thị phương tuyến”): Dùng Tân di, Hoàng liên sao qua, tán nhỏ, hòa với nước đun sôi để nguội, uống.
- Tân di tán: Chữa cảm mạo phong hàn, sợ lạnh, đau đầu, đau gáy, mũi tắc (theo “Tế sinh phương”): Bạch chỉ 10g, Chích thảo 12g, Cảo bản 20g, Khương hoạt 20g, Mộc thông 15g, Phòng phong 10g, Tân di 20g, Tế tân 10g, Thăng ma 15g, Xuyên khung 10g. Các vị trên tán bột. Ngày dùng 12g với nước trà.
- Tân di chữa chứng phù, có nốt đen (hắc ban) mọc trên mặt: kết hợp với Bạch chỉ, Đan bì, Lăng tiêu hoa, Xích thược để điều trị.
- Chữa viêm xoang mãn (theo “(Quảng Đông Trung thảo dược xử phương tuyển biên”): Tân di 20g, Nga bất thực thảo 5g, đem 2 vị trên ngâm nước trong 4 - 8h, sau đó chưng cất lấy nước nhỏ mũi vài lần trong ngày.
- Chữa viêm xoang có mũi sung nề, tắc ngạt: Tân di 9g, Thương nhĩ tử (Ké đầu ngựa) 15g, Bạc hà 6g, sắc lần đầu lấy nước uống, sau đó sắc tiếp bã thuốc, lấy nước cô thật đặc rồi trộn với nước ép Thông bạch (hành củ) để nhỏ mũi.
- Chữa viêm mũi, viêm xoang: Tân di, Cỏ ngũ sắc lượng bằng 1/3 Tân di, sắc lấy nước nhỏ mũi hoặc cho vào bình xịt mũi ngày 3 lần.
- Trị não lậu tị uyên (theo “Điền Nam bản thảo”): Tân di nướng trên ngói mới nghiền nhỏ. Nếu kèm theo mặt đau lạnh, vị khí thống, thì hòa với rượu nóng uống.
- Trị viêm mũi, viêm xoang (theo “Đơn phương nghiệm phương điều tra tư liệu tuyển biên”): Tân di 12g, trứng gà 3 quả. Luộc trứng cùng tân di, luộc xong ăn trứng uống nước, bỏ bã Tân di.
- Trị chảy nước mũi, Polyp mũi (theo “Dương y đại toàn”): Tân di (bỏ lông) 200g, Tang bạch bì (Chích mật) 200g, Chi tử 50g, Chỉ thực 100g, Cát cánh 100g, Bạch chỉ 100g. Các vị nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 6 – 8g, uống cùng nước sắc củ cải.
- Trị đầu mặt sưng ngứa do phong đàm (theo “Cổ kim y chuẩn”): Tân di 50g, Bạch phụ tử, Thiên hoa phấn, Bán hạ, Bạch chỉ, Bạch Cương tàm, Huyền sâm, Xích thược đều 20g, Bạc hà 30g. Chia làm 10 thang sắc uống ngày 1 thang.
Thu hái hoa chưa nở vào đầu xuân, cắt bỏ cành cây, phơi trong bóng râm (âm can), loại bỏ phần vỏ lông bên ngoài (mao xạ phế, lệnh nhân khái – lông của Tân di vào phế kích thích gây ho) hoặc bọc vải khi sắc, khi dùng cần sao qua. Nhiệt tà có tính trốn chạy, người bị khí hư hỏa thịnh kỵ dụng Tân di.
Bác sĩ: Nguyễn Thùy Ngân (Thọ Xuân Đường)